Results (
Vietnamese) 2:
[Copy]Copied!
Việt Nam, Kinh tế
Trong thế kỷ cai trị của đế quốc Trung Hoa và Việt Nam, xã hội của Việt Nam chủ yếu là nông nghiệp. Nguồn chính của nó quý là gạo. Mặc dù một số sản xuất và thương mại tồn tại, họ nhận được rất ít khuyến khích chính thức và chiếm phân đoạn nhỏ của tổng sản phẩm trong nước (GDP). Dưới sự cai trị của thực dân Pháp, nông nghiệp tiếp tục chiếm vị trí chính trong nền kinh tế quốc gia, mặc dù trọng tâm chuyển sang trồng các loại cây xuất khẩu. Ngoài lúa, các loại cây trồng là cà phê, chè, cao su, và các sản phẩm nhiệt đới khác. Ngành công nghiệp và thương mại nhỏ phát triển, đặc biệt là ở các thành phố lớn, nhưng sự tăng trưởng của họ bị hạn chế vì các viên chức thuộc địa đã được xác định để tránh cạnh tranh với hàng hóa sản xuất tại Pháp.
Sau khi phân vùng trong năm 1954, chính phủ của Bắc và Nam Việt Nam đã tìm cách để phát triển nền kinh tế quốc gia của họ, mặc dù họ đã thiết lập hệ thống kinh tế khác nhau với các nguồn lực khác nhau và các đối tác kinh doanh. Miền Bắc hoạt động theo một tập trung cao, kinh tế kế hoạch, trong khi miền Nam chủ yếu là duy trì một hệ thống thị trường tự do đã có một số sự tham gia của chính phủ. Sau khi thống nhất đất nước vào năm 1976 miền Bắc dần dần mở rộng nền kinh tế kế hoạch tập trung của mình trên khắp đất nước. Tuy nhiên, vào năm 1986, chính phủ đã phát động một chương trình cải cách để tiến tới một nền kinh tế hỗn hợp mà hoạt động dưới tư nhân cũng như tập thể, nhà nước kiểm soát. Kết quả là, Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển nhanh chóng. Đến năm 2000 GDP đã tăng lên đến $ 31300000000, tăng với tốc độ hàng năm là 7,9 phần trăm trong năm 1990. Tuy nhiên, thu nhập bình quân đầu người vẫn ở mức thấp, trung bình khoảng $ 400A năm. Các ngành dịch vụ chiếm 39 phần trăm của GDP; ngành công nghiệp, 37 phần trăm; và nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, 24 phần trăm.
Kinh tế, vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế
ở Việt Nam, cũng như ở các tiểu bang khác cai trị bởi đảng Cộng sản, Chính phủ dự kiến sẽ đóng một vai trò hướng dẫn trong mọi vấn đề, bao gồm cả các nền kinh tế quốc gia. Lý thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác cổ điển gọi cho tất cả các ngành công nghiệp lớn và các tiện ích sẽ quốc hữu hóa và cho đất nông nghiệp được đặt dưới quyền sở hữu nhà nước hoặc tập thể.
Như vậy là tình hình ở Bắc Việt Nam trong thời chiến tranh Việt Nam và bước đầu trong cả nước thống nhất thành lập vào năm 1976. Tuy nhiên, ở Việt Nam nền kinh tế thực hiện disastrously trong thập kỷ đầu tiên sau chiến tranh. Kiểm soát quá mức của chính phủ, thiếu kinh nghiệm quản lý, nguồn vốn hạn chế, và sự vắng mặt của một động cơ lợi nhuận cả góp cho nền kinh tế yếu kém. Năm 1986, chính phủ đã phát động một chương trình cải cách được gọi là đổi mới (đổi mới kinh tế) nhằm giảm nhiễu của chính phủ trong nền kinh tế và phát triển một phương pháp tiếp cận dựa trên thị trường để tăng năng suất quốc gia.
Trong những năm qua kể từ khi cải cách đổi mới đã được đưa ra, tăng trưởng kinh tế Việt Nam đã tăng tốc , và một số nhà quan sát dự đoán nước này sẽ sớm nổi lên như là một trong những quốc gia phát triển của châu Á. Sử dụng các quỹ có nguồn gốc từ nguồn thu hải quan và cơ sở thuế hạn chế, cũng như một truyền gần đây của vốn nước ngoài, chính phủ đang hăng hái tìm cách hiện đại hóa cơ sở hạ tầng như là một phương tiện thu hút đầu tư bổ sung. Nhưng một loạt các yếu tố cản trở sự tăng trưởng nhanh chóng, và ngày nay các nhà lãnh đạo Việt Nam đang gặp phải những khó khăn ngày càng tăng trong nỗ lực của họ để cải tạo hệ thống. Trong số những trở ngại đó là sự miễn cưỡng của các nhà lãnh đạo đảng để tiếp tục tư nhân hóa nền kinh tế cũng như một mức độ cao của sự can thiệp hành chính vào các vấn đề kinh tế. Điều kiện như vậy thường làm thất bại các nhà đầu tư nước ngoài và các tổ chức cho vay quốc tế. Lãnh đạo hiện nay của Việt Nam khẳng định rằng xu hướng hướng tới một cách tiếp cận dựa trên thị trường sẽ vẫn còn nhưng vẫn cho rằng các doanh nghiệp nhà nước sẽ tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Kinh tế, Lao động
Việc tổ chức lao động chính thức tại miền Bắc Việt Nam là Tổng Liên đoàn Thương mại Việt Nam công đoàn, thành lập tại Hà Nội vào năm 1946. Sau khi đất nước được thống nhất, tổ chức sự hấp thụ của Liên đoàn Công đoàn Nam Việt Nam. Liên đoàn là một tổ chức bảo trợ giám sát các hoạt động của các công đoàn lao động chuyên ngành tại Việt Nam, như Liên minh Quốc gia của công nhân xây dựng. Vào giữa những năm 1990, liên minh chứa hơn 50 liên đoàn lao động với tổng số thành viên của hơn 4 triệu. Như trong tất cả các hệ thống cộng sản, phong trào lao động tại Việt Nam dưới sự giám sát nghiêm ngặt bên. Bất ổn lao động, bao gồm cả các cuộc đình công không được thừa nhận, đã tăng lên kể từ khi cải cách moi doi đã được đưa ra vào năm 1986. Phần lớn sự thù địch thúc đẩy tình trạng bất ổn này là do điều kiện làm việc nghèo nàn và tiền lương thấp trong các doanh nghiệp nước ngoài.
Lực lượng lao động của Việt Nam số 40 triệu vào năm 1996. Nông nghiệp , lâm nghiệp, ngư nghiệp sử dụng 69 phần trăm lực lượng lao động trong năm 1997; khu vực dịch vụ tuyển dụng 19 phần trăm; và ngành công nghiệp sử dụng 10 phần trăm.
Kinh tế, Nông nghiệp, Lâm nghiệp, và cá
truyền thống Việt Nam đã thu được phần lớn tài sản từ nông nghiệp, đặc biệt là từ việc trồng lúa nước. Trong thời đại truyền thống và thuộc địa nhất đất nông nghiệp thuộc sở hữu tư nhân và được nuôi dưỡng bằng cách chủ sở hữu hoặc người thuê nhà. Tuy nhiên, dưới sự cai trị cộng sản, chính phủ đặt đất nông nghiệp ở miền Bắc thuộc sở hữu tập thể. Sau khi thống nhất đất nước, chính phủ đã cố gắng collectivize tất cả đất nông nghiệp tư nhân tại miền Nam, nhưng sức đề kháng của địa phương và sản xuất ngũ cốc giảm cuối cùng đã thuyết phục các nhà lãnh đạo đảng để tháo dỡ các hệ thống tập. Thay vào đó, họ được cấp hợp đồng thuê dài hạn cho nông dân để đổi lấy một hạn ngạch hàng năm của hạt nộp cho nhà nước. Sản xuất dư thừa có thể được tiêu thụ riêng hoặc được bán trên thị trường tự do.
Sản xuất nông nghiệp tăng lên đáng kể, tăng 62 phần trăm giữa năm 1985 và 1997. By cây trồng đến nay quan trọng nhất là lúa, được nuôi trong điều kiện ẩm ướt ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và Hồng cũng như trong các bộ phận của miền Trung Việt Nam. Hầu hết các vùng trồng lúa có thể hỗ trợ hai vụ mỗi năm, và ba vụ mỗi năm có thể có trong các bộ phận của miền Trung Việt Nam. Tổng sản lượng lúa tăng từ 16 triệu tấn năm 1985 lên 31 triệu tấn metric vào năm 1997, trong khi sản lượng chè tăng từ 28.200 đến 77.000 tấn. Cây trồng quan trọng khác là dừa, cà phê, bông, trái cây và rau quả, cao su, mía. Việc đánh bắt cá hàng năm tăng từ 808.000 tấn năm 1985 lên 1,5 triệu tấn vào năm 1997. metric
Sự phát triển của lâm nghiệp thương mại đã bị cản trở bởi một thiếu phương tiện vận chuyển cũng như bởi sự pha trộn của các loài cây khác nhau, mà làm cho nó không kinh tế để thu hoạch một loài duy nhất. Hơn nữa, áp lực dân số đã tăng tốc độ phá rừng. Từ năm 1992 chính phủ đã cấm xuất khẩu gỗ tròn và một số sản phẩm gỗ trong một nỗ lực để bảo vệ rừng còn lại. Gỗ tròn khai thác hầu hết được sử dụng làm nhiên liệu hộ gia đình. Sản xuất gỗ, chủ yếu bằng gỗ tếch và tre, đã vẫn trì trệ.
Kinh tế, Sản xuất
Tại thời điểm chinh phục của Pháp vào cuối thế kỷ 19, ngành công nghiệp của Việt Nam đang ở một giai đoạn tương đối nguyên thủy. Người Pháp đã giới thiệu một số công nghệ và phương pháp sản xuất hiện đại. Sau khi phân chia Việt Nam vào năm 1954, cả chính quyền miền Bắc và miền Nam đã cố gắng để thúc đẩy công nghiệp hóa. Tuy nhiên, những nỗ lực bị cản trở bởi các cuộc chiến tranh Việt Nam, và các bé đã được hoàn thành trước năm 1975.
Sau khi thống nhất đất nước, chính phủ Cộng sản phát huy sự sáng tạo của một xã hội công nghiệp tiên tiến đặc trưng bởi sở hữu nhà nước, nhưng kết quả là ít ỏi. Các kế hoạch được thông qua như là một phần của quá trình đổi mới gọi cho một cách tiếp cận cân bằng để phát triển cả hai ngành công nghiệp và nông nghiệp, với một kết hợp của nhà nước, tập thể, sở hữu tư nhân.
Các công ty lớn nhất vẫn thuộc sở hữu nhà nước, nhưng vai trò và số lượng tin các doanh nghiệp đã tăng lên đều đặn. Hầu hết các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cho thị trường trong nước, mặc dù một số lượng lớn sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt là hàng dệt may và thực phẩm chế biến. Sản xuất thép đã tăng mạnh kể từ khi chiến tranh kết thúc, và sản xuất xi măng, phân bón hóa học, và hàng dệt và giấy là trên các xu hướng đi lên. Doanh nghiệp nước ngoài đóng một vai trò ngày càng tăng nhưng vẫn còn hạn chế trong lĩnh vực công nghiệp.
Kinh tế, Mining
Hầu hết các hoạt động khai thác khoáng sản diễn ra ở các tỉnh phía bắc của đất nước, nơi mà than than, quặng Apatit, thạch cao, thiếc, kẽm, sắt, antimon, và crôm là trích xuất. Than và apatit được khai thác rộng rãi. Tổng sản lượng than năm 1999 là 10,8 triệu tấn.
Trong những năm gần đây, các mỏ dầu lửa và khí đốt tự nhiên lớn đã được phát hiện dọc theo thềm lục địa ở Biển Đông. Với sự hỗ trợ từ Liên Xô, Việt Nam đã bắt đầu chiết xuất dầu từ mỏ dầu đầu tiên vào giữa những năm 1980. Lĩnh vực dầu bổ sung kể từ đó đã trở thành sản xuất. Trong cuối những năm 1990 xăng dầu chiếm gần một phần ba doanh thu xuất khẩu của Việt Nam. Tiếp tục phát triển có thể bị cản trở, tuy nhiên, do tranh chấp với Trung Quốc và các quốc gia lân cận khác về quyền sở hữu tiền gửi ra nước ngoài trong các lĩnh vực
Kinh tế, Năng lượng
trung bình mỗi đầu người tiêu thụ điện là tương đối thấp ở Việt Nam vì nhiều người, đặc biệt là ở các khu vực nông thôn, đốt gỗ để đáp ứng nhu cầu năng lượng trong gia đình của họ. Nhiên liệu truyền thống này chiếm gần một nửa tổng số sử dụng năng lượng của nước này vào giữa những năm 1990, nhưng sự tăng trưởng thương mại và đô thị đang gia tăng nhu cầu về điện. Vào giữa những năm 1990 điện đã được cung cấp chủ yếu bởi các trạm thủy điện, mặc dù cài đặt nhiệt dầu mỏ và than đốt là cũng quan trọng.
Kinh tế, Giao thông vận tải
Một hệ thống giao thông vận tải thô sơ từ lâu đã là một trong những trở ngại chính cho sự phát triển kinh tế ở Việt Nam. Trong khi hệ thống đường giao thông là một trong những tốt nhất trong khu vực Đông Nam Á, cho đến gần đây các đội tàu động cơ đã lỗi thời, bao gồm chủ yếu của xe tải của Liên Xô xây dựng trong những năm 1950. Hơn nữa, thiết bị đường sắt bị hư hại trong chiến tranh, và thiếu kinh phí sửa chữa hoặc ngăn chặn sự mở rộng của hệ thống đầy đủ. Trong cuối những năm 1990, chính phủ bắt đầu một nỗ lực để hiện đại hóa
Being translated, please wait..