Results (
Vietnamese) 2:
[Copy]Copied!
Ít được biết đến thành viên của gia đình herpesvirus con người được gọi là HHV-6A nhiễm niêm mạc tử cung trong 43 phần trăm phụ nữ vô sinh không rõ nguyên nhân, nhưng không thể được tìm thấy trong đó phụ nữ màu mỡ, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra. Nghiên cứu cũng báo cáo rằng sự lây nhiễm càng trầm trọng hơn bởi estradiol hormone. Estradiol dao động với chu kỳ kinh nguyệt. Mức độ cao có thể gây ra nhiễm trùng hoạt động địa phương trong tử cung.
Một nghiên cứu mới đã phát hiện ra rằng các thành viên ít được biết đến của gia đình herpesvirus con người được gọi là HHV-6A nhiễm niêm mạc tử cung ở 43% phụ nữ có vô sinh không rõ nguyên nhân nhưng không thể được tìm thấy trong tử cung của phụ nữ màu mỡ. Nghiên cứu được tiến hành bởi các nhà điều tra tại Đại học Ferrara, Italy.
Nghiên cứu cũng cho thấy rằng phản ứng của hệ thống miễn dịch với virus này có thể góp phần làm cho tử cung ít hiếu khách một quả trứng được thụ tinh. Virus này dường như kích hoạt các tế bào miễn dịch gọi là tế bào giết tự nhiên trong tử cung, và dẫn những tế bào sản xuất hóa chất gọi là cytokine. Cytokine là các công cụ hệ thống miễn dịch sử dụng để dàn xếp một cuộc tấn công vào một kẻ xâm lược nước ngoài, giống như một loại virus. Tuy nhiên, các tế bào của hệ miễn dịch kích hoạt và mức độ bất thường của các cytokine nhất định có thể làm cho nó khó khăn hơn cho một trứng thụ tinh khiếu trong tử cung, và phát triển thành một em bé.
Vô sinh ảnh hưởng đến khoảng 6% trong 15-44 năm phụ nữ lớn tuổi hay 1,5 triệu phụ nữ ở Mỹ, theo CDC. Khoảng 25% các trường hợp vô sinh nữ là không giải thích được, để lại phụ nữ có vài lựa chọn khác hơn là phương pháp điều trị khả năng sinh sản đắt tiền. "Đây là một phát hiện đáng ngạc nhiên và tiềm năng quan trọng," Anthony Komaroff, một giáo sư tại trường Y Harvard đã nghiên cứu HHV-6 cho biết. "Nếu được xác nhận, phát hiện này có thể dẫn đến phương pháp điều trị để cải thiện kết quả cho một tập hợp con lớn của phụ nữ vô sinh."
Ít được biết về HHV-6A, được phát hiện vào năm 1986 và là một trong chín herpesviruses con người. Những người khác gồm Epstein Barr Virus, virus varicella-zoster, cytomegalovirus, và herpes simplex loại 1 và 2. Từ HHV-6A là thường không thể phát hiện được trong máu hoặc nước bọt, tỷ lệ thực sự của nó là không rõ. Một loại virus có liên quan chặt chẽ, HHV6-B, được mua lại bởi gần 100% dân số trong thời thơ ấu và được lan truyền qua tiếp xúc với nước bọt.
HHV-6B gây -ban đào và co giật do sốt ở trẻ, và có thể gây viêm não và bệnh của các cơ quan khác ở những bệnh nhân có thiếu sót miễn dịch hoặc những người đang trên thuốc ức chế miễn dịch.
Hiện nay, không có loại thuốc được FDA chấp thuận cho HHV-6A hoặc HHV-6B, nhưng các chuyên gia bệnh truyền nhiễm thường được sử dụng valganciclovir, foscarnet, và cidofovir để điều trị HHV-6B kích hoạt trong bệnh nhân cấy ghép. Những loại thuốc này được phát triển để điều trị herpesvirus-5 người (HHV-5), được gọi là cytomegalovirus.
Cần nghiên cứu thêm để xác nhận những phát hiện và xác định xem điều trị kháng virus sẽ giúp phụ nữ có nhiễm trùng tử cung này. Chẩn đoán nhiễm HHV-6A của niêm mạc tử cung có thể được thực hiện bởi một sinh thiết nội mạc tử cung, một quy trình chuẩn được thực hiện bởi bác sĩ phụ khoa mà không cần gây mê sử dụng một thiết bị hút nhỏ.
Being translated, please wait..
