Results (
Vietnamese) 1:
[Copy]Copied!
Nói chung, bao gồm đất không thấm nước bề mặt hay đô thị đã tăng từ 67 sqkm hoặc chỉ 2,69% của cảnh quan lưu vực trong năm 1990 tới 296 sqkm hoặc 11,80% vào năm 2010. Vì vậy, không thấm nước bề mặt mở rộng 4,4 lần. Trong thời gian đó, dân số được ước tính tăng khoảng 2.2 lần chỉ. Ngoài ra, hơn 44 sqkm của các vùng đất thấp [dưới 1,3 mét] đã được tháo nước để xây dựng nhà ở và các nhà máy. Kết quả là, khu định cư dưới đây tỷ lệ đáng báo động lũ lụt III [1,3 mét] tăng lên gần 400%. Phát triển đô thị cũng xảy ra ở khu vực lưu vực thượng nguồn của sông Sài Gòn, đặc biệt là trong tỉnh Bình Dương. Khoảng 70 sqkm đất ở đây bị đô thị hóa từ năm 1990 đến năm 2010. Vĩ đại nhất lệ đô thị hóa thường được tìm thấy trong năm 1996 đến năm 2010 khi chúng tôi cũng quan sát các xu hướng ngày càng tăng đáng kể của mực nước sông Sài Gòn. Trong tổng số 229 sqkm của nông nghiệp và đất ngập nước được chuyển đổi thành không thấm nước bề mặt trong thời hạn 20 năm.Các khu vực đô thị hoá ở lưu vực sông Sài Gòn đã không chỉ là các thuật ngữ đã thay đổi trong kích thước, nhưng cũng tại hạn các hình dạng và phân tán. Làm thêm giờ, compactness của lưu vực sông khu vực đô thị cũng như các khu vực đô thị thành phố Hồ Chí Minh đã được giảm từ điểm 0,11 và 0.043 vào năm 1990 để 0,07 và 0.026 2010 tương ứng. Hình 6 giải thích sự giảm nhỏ gọn của thành phố như là kết quả của sự phát triển đô thị, những người có lẽ không có kế hoạch, dọc theo hành lang giao thông chính như đường cao tốc số 1 và số 13 ở ngoại thành của thành phố-một hiện tượng phổ biến tại Việt Nam do giới hạn truy cập vào cơ sở hạ tầng ở nông thôn xa hành lang giao thông vận tải. Ngược lại với chỉ số K nhỏ gọn, Fractal đo D nói chung tăng lên một chút trong 20 năm đô thị hóa theo một đường cong Sin. Giá trị K tăng từ 1.27 năm 1990 đến 1,32 năm 2010. Tăng kích thước Fractal có thể phản ánh sự thống trị ngày càng tăng của chính thức phát triển dọc theo rìa phía đô thị trong thời gian 20 năm.
Being translated, please wait..
