Results (
Vietnamese) 1:
[Copy]Copied!
Trong các nghiên cứu, phát triển đô thị chỉ được đại diện bởi các phép đo tổng hợp như khu vực không thấm nước. Tuy nhiên, cảnh quan sinh thái đã thực hiện một lý luận quan trọng rằng không chỉ các đặc điểm tổng hợp của một thành phố đô thị hoá vùng như Tổng mật độ diện tích và dân số không thấm nước nhưng cũng cấu trúc và các đô thị dạng mô hình của thành phố đó ảnh hưởng đến các điều kiện thủy văn (Whitford, Ennos et al. 2001, Alberti 2005, Greve 2012). Trong 10 năm gần đây, sinh thái cảnh quan và quy hoạch các học giả đã cố gắng để định lượng các mối quan hệ giữa hình thức đô thị và hiệu suất sinh thái (Alberti năm 2008). Nghiên cứu thực hiện bởi Alberti, Booth et al. (2007) Hiển thị các mối quan hệ thống kê đáng kể giữa các cấu hình không gian của đô thị mô hình và điều kiện sinh thái suối trong suốt 42 phụ lưu vực của lòng chảo Puget Sound ở tiểu bang Washington, [chúng TA]. Học cùng một lưu vực, Greve (2012) tìm thấy các mối quan hệ tuyến tính giữa phần năm hàng năm có nghĩa là xả vượt quá diện tích sàn-khẩu phần, nhiều phạm vi bảo hiểm, và nhà ở với mật độ đơn vị. Các biến phân số cũng có mối quan hệ nghịch đảo mạnh với tập chỉ số mật độ cao và trung bình khu vực đô thị. Schueler (1994) và Klein (1979) khái quát về phần trăm bề mặt không thấm nước như là một chỉ số chính của thủy sản sức khỏe của hệ sinh thái: 10% - 30% cho thấyHình 2: Lũ lụt gần Downtown TP.Hồ Chí Minh. Ảnh: Minh Đức [tuổi trẻ News] - sử dụng với sự cho phép.NGUYỄN dũng Urban form & hiệu suất thủy văn trong lưu vực sông Sài Gòn thứ 49 ISOCARP Quốc hội năm 20134'ảnh hưởng', và 30% - 100% 'suy thoái' tình trạng. Nghiên cứu gần đây bởi Olivera và DeFee (2007) về ảnh hưởng của đô thị hoá trong nước thay đổi khẳng định tầm quan trọng của không thấm nước bề mặt và ngưỡng cảnh quan 10 phần trăm của một hệ sinh thái để duy trì chức năng của thủy văn.
Being translated, please wait..
