Results (
Vietnamese) 1:
[Copy]Copied!
Chính sách kinh tế của Việt Nam sau cuộc khủng hoảng tài chính Châu á 1997 đã là một thận trọng, nhấn mạnh kinh tế vĩ mô ổn định chứ không phải là tăng trưởng. Trong khi đất nước chuyển hướng tới một nền kinh tế hơn theo định hướng thị trường, chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục giữ một khiển chặt chẽ trên lĩnh vực chính nhà nước, chẳng hạn như hệ thống ngân hàng, các doanh nghiệp nhà nước và thương mại nước ngoài. [18] GDP tăng trưởng đã giảm đến 6% năm 1998 và 5% vào năm 1999.Việc ký kết của các thương mại song phương thỏa thuận (BTA) giữa Hoa Kỳ và Việt Nam ngày 13 tháng 7 năm 2000, là một mốc quan trọng. Hiệp định cung cấp cho các "quan hệ thương mại bình thường" (NTR) tình trạng của hàng Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ. Nó đã được dự kiến rằng quyền truy cập vào thị trường Mỹ sẽ cho phép Việt Nam để đẩy nhanh của nó biến đổi thành một nền kinh tế dựa trên sản xuất, xuất khẩu theo định hướng. Hơn nữa, nó sẽ thu hút đầu tư nước ngoài, không chỉ từ Hoa Kỳ, mà còn từ châu Âu, Asia và các vùng khác.Vào năm 2001, cầm quyền Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua một kế hoạch kinh tế 10-năm nâng cao vai trò của khu vực tư nhân, trong khi tái khẳng định primacy của bang. [15] tăng trưởng sau đó đã tăng lên 6% đến 7% từ năm 2000 đến 2002 ngay cả ở giữa suy thoái kinh tế toàn cầu, làm cho nó kinh tế đang phát triển nhanh nhất thứ hai của thế giới. Cùng lúc đó, đầu tư lớn sợi và tiết kiệm trong nước quintupled.Năm 2003, khu vực tư nhân chiếm hơn một phần tư của tất cả các sản lượng công nghiệp. [15] Tuy nhiên, từ năm 2003 và 2005, Việt Nam đã giảm đáng kể trong diễn đàn kinh tế thế giới xếp hạng báo cáo cạnh tranh toàn cầu, chủ yếu là do các nhận thức tiêu cực về hiệu quả của các cơ quan chính phủ. [15] chính thức tham nhũng là loài đặc hữu của, và Việt Nam chậm lại trong quyền sở hữu, các quy định hiệu quả của thị trường, và lao động và cải cách thị trường tài chính. [15]Việt Nam có một tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của 7,1% một năm từ năm 2000 đến năm 2004. Tăng trưởng GDP 8.4% năm 2005, lớn thứ hai ở Châu á, dấu chỉ của Trung Quốc. Chính phủ ước tính rằng GDP tăng trong năm 2006 8.17%. Theo bộ trưởng bộ kế hoạch và đầu tư, chính phủ nhắm mục tiêu tăng trưởng GDP của khoảng 8,5% trong năm 2007. [19]7 tháng 11 năm 2006, hội đồng tướng tại tổ chức thương mại thế giới (WTO) thông qua Việt Nam gia nhập gói. Ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên 149th của WTO, sau 11 năm chuẩn bị, bao gồm tám năm đàm phán. [17] Quốc gia truy cập vào WTO được dự định để cung cấp cho một tăng quan trọng cho nền kinh tế, vì nó đảm bảo rằng các cải cách tự tiếp tục và tạo ra các tùy chọn cho việc mở rộng thương mại. Tuy nhiên, việc gia nhập WTO cũng mang lại những thách thức nghiêm trọng, đòi hỏi phải có nền kinh tế mở ra cho tăng nước ngoài cuộc thi.Kinh tế của Việt Nam tiếp tục mở rộng tại một tỷ lệ hàng năm vượt quá 7%, một trong những phát triển nhanh nhất trên thế giới, nhưng nó đã tăng trưởng từ một cơ sở rất thấp, như nó bị ảnh hưởng làm tê liệt của cuộc chiến tranh Việt Nam từ những năm 1950 tới thập niên 1970, cũng như các biện pháp khắc khổ giới thiệu trong hậu quả của nó. [15] vào năm 2012, Đảng Cộng sản đã buộc phải xin lỗi về sự quản lý kém của nền kinh tế sau khi một số lượng lớn của nhà đã bị phá sản và lạm phát tăng. Nguy hiểm chính đã hơn nợ xấu trong các ngân hàng với tổng cộng 15% và thời tăng trưởng là 5,2% cho 2012 nhưng này cũng là do cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu. [20] Tuy nhiên, chính phủ đã đưa ra các chương trình cải cách kinh tế như nâng cap quyền sở hữu nước ngoài từ 49% và một phần privatizing quốc gia nhà nước thuộc sở hữu công ty mà đã được chịu trách nhiệm về suy thoái kinh tế gần đây vào cuối năm 2013 chính phủ dự kiến sẽ để tư nhân hoá 25-50 phần trăm của hầu hết nhà chỉ duy trì quyền kiểm soát trên dịch vụ công cộng và quân sự. Những cuộc cải cách tại đã tạo ra một sự bùng nổ lớn trong thị trường chứng khoán Việt Nam như sự tự tin trong nền kinh tế Việt Nam đang quay.Trong 2 thập kỷ qua, Việt Nam có kinh nghiệm một xây dựng nhanh chóng bùng nổ đó đã đóng góp một phần lớn trong tăng trưởng kinh tế nhưng cũng gây ra "bong bóng" cho nền kinh tế. Tòa nhà chọc trời nấm ở các thành phố lớn. Theo dữ liệu của trang web Skyscrapercity, vào năm 2013, các tòa nhà cao nhất ba hàng đầu tại Việt Nam là Hanoi Landmark 72 (336 m), Trung tâm Lotte Hà Nội (267 m) và tháp tài chính Bitexco Sài Gòn (263 m).Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay của Việt Nam đã được tăng lên các câu hỏi của một giai đoạn mới thay đổi kinh tế chính trị. [21]
Being translated, please wait..